Nhận biết bệnh
Virus varicella zoster gây bệnh thủy đậu (varicella) ở trẻ em, sau đó nằm yên trong hạch rễ thần kinh hàng chục năm, khi có cơ hội sẽ gây bệnh zona (herpes zoster).
Bệnh zona
Lúc đầu, người bệnh bị nhức đầu, sợ ánh sáng, khó ở, hiếm khi có sốt, có cảm giác da bất thường (ngứa, đau nhói hoặc dữ dội). Khoảng một đến năm ngày sau, xuất hiện hồng ban dát sẩn, tiến triển thành các cụm mụn nước trong, trong vòng 3-5 ngày lần lượt chuyển qua các giai đoạn: hóa mủ, loét, đóng vảy. Sau chừng 2-4 tuần, các tổn thương da sẽ lành song để lại sẹo và thay đổi màu da vĩnh viễn. Tổn thương da thường kéo thành vạt dài, khu trú ở vùng hông, lưng, cổ, đùi hay bị nhầm với chứng dị ứng do dịch tiết của con dời (một số loại bò sát) nên gọi là bệnh “dời leo”.
Nếu làm phản ứng huyết thanh thì có khoảng 90% người lớn có bằng chứng nhiễm virus varicella zoster nhưng chỉ có khoảng 0,15%-0,3% mắc zona, hàng năm có thêm 0,2% người mắc mới. Người già có tỷ lệ mắc cao hơn trẻ. Ở người trẻ, bệnh thường lành tính, ít khi để lại di chứng; Ở người già, bệnh dễ trầm trọng, thường để lại di chứng. Riêng di chứng đau thần kinh sau zona, người trên 50 tuổi thường có tỷ lệ xuất hiện cao gấp 15 – 25 lần người dưới 30 tuổi.
Đa số người bệnh (phần lớn là trẻ), zona chỉ lan tỏa ở da nhưng cũng có 5 -10% (phần lớn là già), zona có thể gây tổn thương nội tạng (viêm phổi, viêm não, viêm gan, hoại tử võng mạc), có trường hợp dẫn đến tử vong (do viêm phổi) nhưng hiếm gặp.
Các thuốc thường dùng là thuốc kháng virus và thuốc giảm đau.
Các kháng virus
Dùng trong giai đoạn cấp tính. Thường dùng: acyclovir, valacylovir, famcilovir. Cả ba đều có tính năng tương tự: rút ngắn thời gian bài xuất virus, làm ngừng nhanh sự hình thành tổn thương mới, đẩy nhanh tốc độ liền sẹo, giảm độ nặng của cơn đau cấp. Chỉ có một số khác nhau nhỏ: Valacyclovir là tiền chất của acyclovir, sản sinh ra acyclovir trong huyết thanh cao gấp 5 lần acyclovir, nếu dùng uống valacyclovir mỗi 8 giờ một lần 1000mg sẽ có hiệu quả bằng dùng acyclovir mỗi 4 giờ một lần 800mg. Valaivlovir, famciclovir có cân bằng dược động học tốt, cách dùng đơn giản được ưa thích hơn. Một vài chú ý: Cần dùng sớm trong vòng 24-48 giờ khi có triệu chứng với liều cao: Acyclovir cách 4 giờ một lần 800 mg, mỗi ngày 5 lần, trong 10 ngày. Valacyclovir cách 8 giờ một lần 100mg, mỗi ngày 3 lần, trong 7 ngày. Không dùng dạng thuốc bôi vì không hiệu quả. Thuốc không gây ra tác dụng bất lợi nào, tuy nhiên với người suy thận nên dùng giảm liều. Do chưa có thông tin đầy đủ nên không dùng cho phụ nữ có thai.
DS CKII Bùi Văn Uy - BS Vũ Trung Hải